Ba nhóm nhiệm vụ chiến lược Năm 2010 là năm cuối cùng thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 nên cũng là cơ hội cuối cùng để đạt các mục tiêu của chiến lược. Với mục tiêu quan trọng hàng đầu là tăng gấp hai lần quy mô GDP sau 10 năm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 phải đạt tối thiểu 6,5% như Nghị quyết Quốc hội đã thông qua. Rõ ràng đây là mục tiêu không đơn giản khi bối cảnh quốc tế chưa hoàn toàn thuận lợi và nhân tố tăng trưởng kinh tế không có thay đổi cơ bản sau một thập kỷ. Trên con đường gập ghềnh đó, "cỗ xe" kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên những động lực truyền thống là:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng đầu tư với tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội tăng liên tục từ mức một phần ba GDP cuối thế kỷ 20 lên hơn 40% GDP mấy năm gần đây, theo đó, hiệu quả đầu tư tổng thể giảm mạnh thể hiện qua hệ số ICOR tăng cao.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chậm nên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể đạt mục tiêu chiến lược nhưng hầu như không có thay đổi về chất trong tăng trưởng, hơn nữa, đáng lo ngại là không thể tạo tiền đề đột phá tăng trưởng ở mức cao hơn.
Thứ ba, mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu trong khi chuyển dịch cơ cấu hàng hóa và thị trường xuất khẩu hạn chế. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm khai khoáng và thô vẫn chiếm ưu thế trong khi nhóm hàng công nghiệp nhẹ vẫn chủ yếu là gia công tận dụng lao động giản đơn giá rẻ có giá trị gia tăng thấp... Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu cũng chậm thay đổi nên mặc dù tổng kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đóng góp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa còn rất hạn chế. Nhập khẩu máy móc thiết bị để đổi mới công nghệ, tăng năng suất và chất lượng chỉ chiếm khoảng một phần tư tổng kim ngạch nhập khẩu trong khi nhập khẩu nguyên nhiên liệu chiếm tới hai phần ba tổng kim ngạch nhập khẩu...
Thứ tư, ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Mức độ lạm phát (thể hiện qua CPI) giai đoạn 2001-2010 thấp hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, nếu lạm phát giai đoạn 1991-2000 có xu hướng giảm đều đặn thì từ năm 2001 lạm phát lại có xu hướng tăng. Quan trọng hơn, CPI của những hàng hóa dịch vụ thiết yếu lại tăng cao hơn CPI chung nên đã tác động trực tiếp tới thu nhập thực tế và mức sống của đại bộ phận người dân có thu nhập trung bình và thấp.
Kiểm soát lạm phát trở thành trọng tâm trong ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong nhiều năm qua, song gần đây việc duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế cũng đang nổi lên nhiều vấn đề, ảnh hưởng trực tiếp tới ổn định kinh tế vĩ mô và hạn chế không gian điều hành chính sách. Nổi bật là thâm hụt cán cân thương mại. Tuy xuất khẩu có những tiến bộ vượt bậc về kim ngạch, nhưng do những hạn chế về cơ cấu, mô hình phát triển xuất khẩu và hạn chế trong kiểm soát nhập khẩu nên nhập siêu đã kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế - xã hội. Mục tiêu kiểm soát nhập khẩu để đẩy thâm hụt thương mại xuống dưới mức 10% GDP và dưới 20% tổng kim ngạch xuất khẩu là rất cấp thiết để ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời tạo tiền đề và động lực để cơ cấu lại nền kinh tế, rút ngắn thời gian tiến tới cân bằng cán cân thương mại.
Thâm hụt thương mại là yếu tố quyết định gây thâm hụt cán cân vãng lai nặng nề trong những năm gần đây, kéo theo thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể. Bên cạnh thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách Nhà nước (NSNN) kéo dài trong nhiều năm cũng làm tăng thêm những rủi ro cho nền kinh tế, cả rủi ro tăng trưởng và mất ổn định kinh tế vĩ mô.
Tóm lại, để bảo đảm đến năm 2020, Việt Nam có một nền kinh tế có quy mô tương xứng với dân số khoảng 100 triệu người và cơ cấu phù hợp với một nước công nghiệp thì ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ thường xuyên, duy trì các cân đối vĩ mô được coi là nhiệm vụ trung hạn và cơ cấu lại nền kinh tế thuộc nhiệm vụ trung, dài hạn. Những lựa chọn chính sách của Việt Nam trước mắt trong năm 2010 và các năm tiếp theo đều cần nhằm thực hiện ba nhóm nhiệm vụ chiến lược nêu trên.
Lựa chọn chính sách tài khóa
Trọng tâm trong ngắn hạn của chính sách tài khóa là giữ vững mức động viên vào NSNN khoảng một phần tư GDP, không giảm nhưng cũng không được tăng để không tăng thêm gánh nặng huy động vào NSNN cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, giảm đến mức thấp nhất và tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về thành phần kinh tế trong cả thực hiện nghĩa vụ thu nộp NSNN cũng như thụ hưởng các khoản chi NSNN và mang tính chất chi NSNN.
Ưu tiên thứ hai là giảm mức độ thâm hụt NSNN trong lộ trình tiến tới cân bằng cán cân NSNN trong dài hạn. Trước mắt, chấm dứt chính sách nới lỏng tài khóa, nhất là nới lỏng thông qua tăng chi đầu tư phát triển, đồng thời xúc tiến chương trình cơ cấu lại chi NSNN theo hướng: ưu tiên đáp ứng đủ chi thường xuyên gắn với cải cách hành chính, tinh giản bộ máy và cắt giảm thủ tục; chi đầu tư phát triển hướng vào thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; bảo đảm chi trả nợ đầy đủ, trong kế hoạch có thể bố trí trả nợ trước hạn.
Bên cạnh đó, chính sách quản lý nợ, cả nợ công và nợ nước ngoài nên theo hướng không làm tăng quy mô nợ, đồng thời quản lý nợ trên cơ sở bảo đảm hiệu quả cả vay và sử dụng các khoản nợ, đặc biệt chú trọng quản lý rủi ro về vay nợ, vừa tránh tình trạng không phát hành được các công cụ nợ, vừa không sử dụng được nguồn thu từ các công cụ nợ đã phát hành như trong mấy năm gần đây.
Lựa chọn chính sách tiền tệ
Nếu chính sách tài khóa nên "trung tính" trong ngắn hạn và chủ động thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế trong trung, dài hạn thì chính sách tiền tệ trở thành công cụ chính sách then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo đảm ổn định vĩ mô. Tính linh hoạt và tính thị trường của chính sách tiền tệ cần được phát huy để thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu then chốt này.
Một mặt, tăng tổng tín dụng vẫn đã, đang và sẽ là nhân tố then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi các kênh tài chính khác cho doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Thực tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có quan hệ hữu cơ với mở rộng tín dụng. Mặt khác, mức độ ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là lạm phát ở Việt Nam cũng có quan hệ biện chứng với tốc độ tăng tín dụng tuy có một độ trễ nhất định. Chính vì vậy, vấn đề quan trọng là hướng nguồn vốn tín dụng tới những khu vực kinh tế thật sự có hiệu quả trong trung và dài hạn, tránh chạy theo hiệu quả kinh tế ngắn hạn (chứng khoán, bất động sản, ngoại tệ mạnh) có thể tạo ra "bong bóng" và gia tăng nợ xấu.
Chính sách lãi suất cũng cần được áp dụng linh hoạt và theo cơ chế thị trường. Lãi suất cơ bản, tái chiết khấu và tái cấp vốn được điều chỉnh linh hoạt kết hợp với nghiệp vụ thị trường mở để giải quyết đồng thời hai bài toán, bảo đảm nguồn vốn có "giá cả" hợp lý để doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, ngăn chặn nguy cơ tăng trưởng nóng và kiểm soát được lạm phát. Trong năm 2010, cần sử dụng lãi suất cơ bản (theo đó là trần lãi suất cho vay) như một công cụ quyết định để kiểm soát tổng tín dụng, thị trường tín dụng ngân hàng (huy động tiền gửi và cho vay) và cả thị trường liên ngân hàng theo đúng các nguyên tắc thị trường.
Ðể đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng, nhất là kiểm soát nhập siêu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo đảm các cân đối cán cân thương mại, cán cân vãng lai, cán cân thanh toán tổng thể, cân đối tiết kiệm đầu tư, cân đối tích lũy tiêu dùng và quản lý nợ nước ngoài thì chính sách tỷ giá hối đoái giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Dự kiến với các sức ép mất cân đối kinh tế giữa trong và ngoài nước, năm 2010, giảm giá VND là tất yếu song mức độ và thời điểm điều chỉnh giảm cần đồng bộ với chính sách quản lý ngoại hối và chính sách thương mại, bảo đảm không tạo ra các cú sốc đối với ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời, không quá kỳ vọng vào việc giải quyết ngay những mất cân đối vĩ mô đã tích tụ trong khoảng năm năm gần đây, nhất là chỉ thông qua công cụ đơn độc như điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Báo Nhân dân