Đỗ Việt Đức - Tổng Cục trưởng Tổng cục DTNN
Dự trữ quốc gia là nguồn lực do Nhà nước tạo lập, đưa vào dự trữ để sử dụng cho mục tiêu chủ động đáp ứng các yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia. Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi huy động, đưa vào dự trữ lương thực, tiền vàng, muối ăn, đạn dược… để phục vụ các yêu cầu cấp thiết của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và kịp thời hỗ trợ cứu đói cho nhân dân. Điển hình là lời kêu gọi “Hũ gạo kháng chiến”, “Hũ gạo nuôi quân”, “Tuần lễ vàng”, “muối quý hơn vàng”, v.v…. đã tạo lập nguồn lực quan trọng đáp ứng yêu cầu cấp thiết lúc bấy giờ. Đây thực chất là hoạt động dự trữ quốc gia.
Mặc dù hoạt động dự trữ quốc gia được thực hiện ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhưng ngành Dự trữ Nhà nước được ra đời muộn hơn. Vào tháng 9 năm 1955, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá I nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã ra Nghị quyết phiên họp, trong đó có đoạn: “Phải xây dựng được một lực lượng dự trữ hùng hậu để ứng phó với mọi tình huống bất trắc xảy ra”. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 663/TTg ngày 13/1/1956 về tổ chức lực lượng dự trữ vật tư nhà nước, với danh mục 27 loại hàng hoá thiết yếu, phân công cho các Bộ trực tiếp bảo quản và giao Ủy ban Kế hoạch quốc gia theo dõi chung.
Để thống nhất quản lý hoạt động, Thủ tướng Phủ (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 997-TTg ngày 7/8/1956 về thành lập Cục quản lý dự trữ vật tư của Nhà nước thuộc Thủ tướng Phủ. Tổ chức bộ máy của Cục Quản lý dự trữ vật tư của Nhà nước theo Nghị định số 997-TTg gồm có 4 phòng chuyên môn và 18 cơ quan đại diện đặt tại các địa bàn quan trọng của đất nước (từ Quảng Bình trở ra). Như vậy, ngày 7/8/1956 đánh dấu sự ra đời của ngành Dự trữ Nhà nước Việt Nam.
Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 7/8 hàng năm được chọn là ngày Truyền thống của ngành Dự trữ Nhà nước theo Quyết định số 1371/QĐ-TTg ngày 06/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là dịp để các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Dự trữ Nhà nước ôn lại lịch sử truyền thống nhằm kế thừa và phát huy những thành quả đã đạt được, tiếp tục phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành Dự trữ Nhà nước lớn mạnh cùng đất nước.
Trải qua 64 năm, với nhiều giai đoạn lịch sử và muôn vàn khó khăn, thách thức, nhưng ngành Dự trữ Nhà nước luôn hướng về phía trước, không ngừng phát triển và lớn mạnh, đóng góp quan trọng trong việc phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia và các nhiệm vụ khác được Đảng và Nhà nước giao.
Trong các giai đoạn lịch sử phát triển của ngành Dự trữ Nhà nước, có thể thấy rõ sự lớn mạnh nổi bật từ khi Cục Dự trữ Quốc gia chuyển về ngôi nhà chung ngành Tài chính. Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 16/8/1999 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Khóa VIII về sắp xếp lại các cơ quan nhà nước theo hướng bộ quản lý đa ngành, giảm đầu mối trực thuộc Chính phủ, Cục Dự trữ quốc gia khi ấy là cơ quan trực thuộc Chính phủ cũng thuộc diện sắp xếp lại. Khi đó, có nhiều phương án sắp xếp được đưa ra, nhưng phương án tối ưu được chọn là chuyển về Bộ Tài chính. Ngày 24/8/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 102/2000/QĐ-TTg chuyển Cục Dự trữ quốc gia về trực thuộc Bộ Tài chính. Vì vậy, tháng 8 năm 2020 vừa là dịp kỷ niệm 64 năm ngày Truyền thống của ngành Dự trữ Nhà nước vừa là dịp kỷ niệm 20 năm Cục Dự trữ quốc gia (nay là Tổng cục Dự trữ Nhà nước) trực thuộc Bộ Tài chính.
Đồng chí Đỗ Việt Đức - Tổng Cục trưởng Tổng cục Dự trữ Nhà nước
Trong giai đoạn 20 năm thuộc Bộ Tài chính (2000-2020), ngành Dự trữ Nhà nước đã có thêm những điều kiện để phát triển và khẳng định vai trò, với nhiều dấu ấn đặc biệt, thể hiện sự lớn mạnh không ngừng của ngành Dự trữ Nhà nước, điển hình là:
Thứ nhất: Sự ra đời của Pháp lệnh dự trữ quốc gia. Dưới sự lãnh đạo của ban cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ Tài chính, dự thảo Pháp lệnh Dự trữ quốc gia được triển khai soạn thảo. Ngày 29/4/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Khóa XI) đã thông qua Pháp lệnh Dự trữ quốc gia số 17/2004/PL-UBTVQH11. Pháp lệnh này được Chủ tịch nước công bố theo Lệnh số 05/2004/L-CTN ngày 12/5/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2004. Cùng với pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 196/2004/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh và thiết lập hệ thống tổ chức ngành Dự trữ Nhà nước gồm: Cơ quan quản lý dự trữ quốc gia chuyên trách thuộc Bộ Tài chính (Cục Dự trữ quốc gia), các đơn vị dự trữ quốc gia khu vực và các đơn vị dự trữ quốc gia thuộc bộ, ngành trực tiếp quản lý, bảo quản hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật.
Thứ hai: Thành lập Tổng cục Dự trữ Nhà nước và tiếp tục kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và đội ngũ cán bộ. Ngày 20/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 106/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Dự trữ Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. Theo đó, Tổng cục Dự trữ Nhà nước được tổ chức theo hệ thống dọc gồm 9 đơn vị tham mưu, 1 đơn vị sự nghiệp và 22 Cục Dự trữ nhà nước khu vực.
Tổ chức và nhiệm vụ của Tổng cục Dự trữ Nhà nước tiếp tục được kiện toàn sau khi Thủ tướng ban hành Quyết định số 36/2019/QĐ-TTg ngày 25/12/2019 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Dự trữ Nhà nước thuộc Bộ Tài chính. Theo quyết định này, cơ cấu tổ chức của Tổng cục một lần nữa được sắp xếp lại theo hướng tinh giảm đầu mối (giảm 1 đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Tổng cục; bỏ tổ chức phòng tại Vụ Tài vụ - Quản trị; sắp xếp để giảm 07 Chi cục Dự trữ Nhà nước trong giai đoạn 2020 – 2025. Cùng với đó, chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục Dự trữ Nhà nước được hoàn thiện theo đúng quy định tại Luật Dự trữ quốc gia. Đội ngũ cán bộ, công chức được từng bước xây dựng đáp ứng tiêu chuẩn quy định và cơ cấu hợp lý. Chính sách, chế độ đối với người làm công tác dự trữ quốc gia được quan tâm chăm lo, giúp cho đội ngũ ngày càng phát triển về mọi mặt để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ ba: Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống kho dự trữ quốc gia đến năm 2020 và Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia đến năm 2020. Ngày 17/01/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 94/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể hệ thống kho dự trữ quốc gia đến năm 2020. Ngày 28/12/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 2091/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia đến năm 2020; theo đó, mục tiêu tổng mức dự trữ quốc gia đến năm 2015 đạt khoảng 0,8-1% GDP và đến năm 2020 đạt khoảng 1,5% GDP.
Thứ tư: Ban hành Luật Dự trữ quốc gia và hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật. Ngày 20/11/2012, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật Dự trữ quốc gia (số 22/2012/QH13) và ngày 03/12/2012 Chủ tịch nước đã ban hành Lệnh số 24/2012/L-CTN công bố Luật Dự trữ quốc gia. Kể từ ngày Luật Dự trữ quốc gia có hiệu lực thi hành (01/7/2013) đến nay, hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật về dự trữ quốc gia đã được Tổng cục Dự trữ Nhà nước tham mưu, trình cấp có thẩm quyền ban hành, gồm: 02 nghị định, 02 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trên 40 thông tư, tạo nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dự trữ quốc gia tương đối đầy đủ và đồng bộ, thúc đẩy nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về dự trữ quốc gia.
Thứ năm: Cơ sở vật chất, kho tàng và công nghệ bảo quản được quan tâm đầu tư, từng bước hiện đại hóa. Để đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, hệ thống cơ sở vật chất, kho dự trữ quốc gia đã được quan tâm đầu tư phát triển theo quy hoạch tại 8 vùng chiến lược về kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng trên cả nước. Hầu hết các khu vực kho dự trữ quốc gia đã được cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây mới với quy mô đủ lớn; kết hợp áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại, như công nghệ bảo quản kín, trang bị phương tiện, thiết bị cơ giới hóa trong quá trình nhập, xuất, bảo quản v.v…
Thứ sáu: Nguồn lực dự trữ quốc gia được tăng cường, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đột xuất, cấp bách phục vụ nhân dân và các nhiệm vụ khác được Đảng và Nhà nước giao. Hàng năm, Nhà nước bố trí tăng ngân sách nhà nước cho dự trữ quốc gia; tổng mức ngân sách bố trí để mua hàng dự trữ quốc gia giai đoạn 2016-2020 gần 12.000 tỷ đồng. Việc tổ chức mua sắm hàng dự trữ quốc gia được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật, hiệu quả, tiết kiệm. Mặt hàng đưa vào dự trữ đều là những mặt hàng thiết yếu, quan trọng, phù hợp với tiêu chí và mục tiêu sử dụng dự trữ quốc gia. Công tác xuất cấp hàng dự trữ quốc gia luôn bảo đảm kịp thời và không để xảy ra tình trạng thiếu hàng so với nhu cầu về số lượng theo các quyết định xuất cấp. Giai đoạn 2016-2020, ngành Dự trữ Nhà nước đã xuất cấp lượng hàng hóa trị giá gần 9.000 tỷ đồng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Các mặt hàng xuất cấp đã góp phần giúp nhân dân kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu đói, từng bước khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân; chung tay chăm lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện vùng cao; góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh và tăng cường hợp tác quốc tế.
Trải qua chặng đường 64 năm, dù khó khăn, gian nan đến đâu, ngành Dự trữ Nhà nước cũng ra sức phấn đấu, góp phần xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc. Ghi nhận những thành tích, đóng góp của các thế hệ cán bộ ngành Dự trữ Nhà nước trong quá trình xây dựng và trưởng thành, Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý, như: Huân chương Hồ Chí Minh (2006); Huân chương Độc lập hạng nhất (2015); Cờ thi đua của Chính phủ (2016); 2 danh hiệu Anh hùng lao động; nhiều đơn vị và cá nhân được tặng thưởng huân chương Độc lập và Huân chương lao động các hạng... Thành tích đạt được 20 năm qua đã tô đậm thêm truyền thống vẻ vang suốt chặng đường 64 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Dự trữ Nhà nước. Chúng ta cùng tin tưởng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành Dự trữ Nhà nước sẽ tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ, đoàn kết nỗ lực phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao, xây dựng ngành Dự trữ Nhà nước ngày càng phát triển./.