Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đã đạt được, công cuộc đổi mới của đất nước đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có tệ tham nhũng.
Những năm gần đây, khi công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế phát triển không chỉ về quy mô, nhịp độ và chiều sâu thì tệ tham nhũng cũng diễn biến hết sức phức tạp, tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trên nhiều lĩnh vực đang làm cản trở nỗ lực đổi mới, kìm hãm sự phát triển của đất nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước và chế độ; làm tổn thương, băng hoại giá trị đạo đức truyền thống, làm phai mờ bản sắc văn hóa dân tộc; làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo, phân cực xã hội; làm giảm uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, công chức cơ quan Tổng cục Dự trữ Nhà nước
tại buổi phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng
Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, nhiều Nghị quyết của Đảng đã đưa ra những chủ trương, chính sách, giải pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21 tháng 8 năm 2006). Luật Phòng, chống tham nhũng cũng đã được ban hành, là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác phòng, chống tham nhũng.
Với mục đích xây dựng một khuôn khổ pháp lý căn bản cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng, Luật phòng, chống tham nhũng thể hiện một tinh thần nhất quán trong việc xác định phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân mà trước hết thuộc trách nhiệm của các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Mặc dù là một văn bản pháp lý quy định khá toàn diện nhưng nhìn chung các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn tập trung vào đối tượng là những người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền.
Trên quan niệm chung như vậy, Luật phòng, chống tham nhũng đã đưa ra nhiều giải pháp liên quan đến cán bộ, công chức. Trong đó, nội dung về Quy tắc ứng xử, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức được quy định như sau:
Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức
Xây dựng và áp dụng các chuẩn mực xử sự đối với đội ngũ công chức là một biện pháp quan trọng đã được cộng đồng quốc tế sử dụng rộng rãi nhằm đảm tính công bằng, liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong thực thi quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm về quy tắc ứng xử đã được xây dựng và quy định thành luật. Theo đó, Điều 36, Luật phòng, chống tham nhũng quy định: “Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ, nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức”.
Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức được công khai để nhân dân giám sát việc chấp hành.
Những việc cán bộ, công chức, viên chức không được làm.
Đây là nội dung đã quy định một phần trong Pháp lệnh chống tham nhũng và Pháp lệnh cán bộ, công chức. Những điều cấm tập trung vào việc ngăn ngừa các hành vi có thể dẫn đến tham nhũng trong quá trình thi hành chức trách nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Quy định về vấn đề này có tính kế thừa Pháp lệnh, đồng thời có bổ sung những nội dung cần thiết để đáp ứng với yêu cầu đấu tranh chống những biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Điều 37 Luật phòng, chống tham nhũng quy định như sau:
1. Cán bộ, công chức, viên chức không được làm những việc sau đây:
a) Cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong khi giải quyết công việc;
b) Thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
c) Làm tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc mình tham gia giải quyết;
d) Kinh doanh trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong một thời hạn nhất định theo quy định của Chính phủ;
đ) Sử dụng trái phép thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị vì vụ lợi.
2. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước.
3. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
4. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan không được để vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi do mình quản lý trực tiếp.
5. Cán bộ, công chức, viên chức là thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác trong doanh nghiệp của Nhà nước không được ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh nghiệp mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong doanh nghiệp hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp.
6. Quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này cũng được áp dụng đối với các đối tượng sau đây:
a) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân;
b) Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân.
Quy định về những điều cán bộ, công chức, viên chức không được làm có một số điểm mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng và Pháp lệnh cán bộ, công chức, cụ thể là:
- Cán bộ, công chức, viên chức không được kinh doanh trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong một thời hạn nhất định theo quy định của Chính phủ.
Đây là một biện pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa việc cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng ảnh hưởng, quan hệ và thông tin có được từ khi giữ chức vụ để phục vụ lợi ích cá nhân, thậm chí là cả hiện tượng cán bộ, công chức, viên chức khi còn tại vị đã cố tình bằng các biện pháp có thể “dọn đường” cho việc kinh doanh của mình sau khi rời chức vụ. Quy định này cũng đồng thời là một yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng;
- Cán bộ, công chức, viên chức là thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác trong doanh nghiệp của Nhà nước không được ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh nghiệp mình.
Đây là một quy định hết sức quan trọng và cần thiết cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay. Một trong những hành vi tham nhũng phổ biến nhất, tinh vi, phức tạp và gây thiệt hại nhiều nhất là hành vi cấu kết giữa cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp của người thân để chuyển các hợp đồng, quan hệ đối tác, thị phần của doanh nghiệp nhà nước ra ngoài hoặc để nhận thầu của doanh quyền nhà nước một cách không minh bạch. Quy định nói trên có tác dụng ngăn ngừa ngay từ đầu những hành vi nói trên. Tuy nhiên, quy định này cần phải được chi tiết hơn nữa để có thể thực hiện được trên thực tế.
- Nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng.
Đây là một quy định mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998. Thực tế cho thấy đa số các vụ việc tham nhũng được phát hiện "từ bên ngoài", trong khi đó những thông tin hay biểu hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thì không được phát giác kịp thời. Đó là những hiện tượng không những đáng phê phán mà phải coi đó là thiếu trách nhiệm. Đây cũng đồng thời là một yêu cầu của Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng.
+ Nghĩa vụ báo cáo về dấu hiệu tham nhũng:
Khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc thì cán bộ, công chức, viên chức phải báo cáo ngay với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến dấu hiệu tham nhũng đó thì báo cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp (Điều 38).
+ Nghĩa vụ xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng:
Chậm nhất là mười ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo về dấu hiệu tham nhũng, người được báo cáo phải xử lý vụ việc theo thẩm quyền hoặc chuyển cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét xử lý và thông báo cho người báo cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không quá ba mươi ngày; trường hợp cần thiết thì quyết định hoặc đề nghị người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng và bảo vệ người báo cáo (Điều 38).
Trong trường hợp, cán bộ, công chức không thực hiện nghĩa vụ báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng, Luật quy định rõ trách nhiệm như sau:
Cán bộ, công chức, viên chức biết được hành vi tham nhũng mà không báo cáo, người nhận được báo cáo về dấu hiệu tham nhũng mà không xử lý thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật (Điều 39).
+ Quy định về tặng quà và nhận quà của cán bộ, công chức.
Việc tặng quà và nhận quà tặng vốn là một phong tục tập quán bình thường của người Á Đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng. Nó thể hiện tình cảm hay sự biết ơn trong các quan hệ xã hội. Nhưng tập quán tốt đẹp này lại bị lợi dụng để thực hiện hành vi đưa nhận hối lộ. Phân biệt được giữa tặng quà và hối lộ là việc rất khó khăn và hối lộ thường được che đậy dưới hình thức quà tặng nên rất khó phát hiện và xử lý.
Điều 40, Luật phòng, chống tham nhũng quy định một số nguyên tắc chung nhất để ngăn ngừa việc lợi dụng tặng quà, nhận quà tặng để hối lộ:
1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị không được sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước làm quà tặng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Cán bộ, công chức, viên chức không được nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình.
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc tặng quà, nhận quà tặng để hối lộ hoặc thực hiện các hành vi khác vì vụ lợi;
4. Chính phủ quy định chi tiết việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức.
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Điều 42 Luật phòng, chống tham nhũng quy định: “Quy tắc đạo đức nghề nghiệp là chuẩn mực xử sự phù hợp với đặc thù của từng nghề bảo đảm sự liêm chính, trung thực và trách nhiệm trong việc hành nghề”.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đạo đức nghề nghiệp; đạo đức công vụ, đề cao yếu tố đạo đức, tìm các giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa rất cơ bản, quan trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức cần phải có các chuẩn mực đạo đức để thông qua đó tự rèn luyện và khép mình vào khuôn khổ, khuôn khổ đó được phản ánh và được thể hiện chính là hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Nhận thức tầm quan trọng, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức; nhằm từng bước xây đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng vững vàng về phẩm chất chính trị, trong sạch về đạo đức, lối sống, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngày 19 tháng 7 năm 2007 Cục Dự trữ quốc gia (nay là Tổng cục Dự trữ Nhà nước) đã ban hành Quyết định số 237/QĐ-DTQG về việc ban hành quy định Tiêu chuẩn đạo đức cán bộ, công chức Cục Dự trữ quốc gia. Quyết định trên đã quy định Tiêu chuẩn đạo đức cán bộ, công chức Cục Dự trữ quốc gia là những chuẩn mực về hành vi, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ, đảm bảo quy định của pháp luật và đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác quản lý dự trữ quốc gia; quy định cụ thể những điều cán bộ, công chức phải làm, những điều cán bộ, công chức không được làm. Đây cũng là tiêu chuẩn để các đơn vị trong toàn hệ thống thuộc Tổng cục làm căn cứ đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, công chức, viên chức hàng năm; đánh giá cán bộ, công chức trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ và đây cũng là chuẩn mực về hành vi, quy tắc ứng xử để mỗi cán bộ, công chức của Tổng cục Dự trữ Nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu, học tập, rèn luyện, không ngừng hoàn thiện mình./.
Lê Thị Xuân - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách và Pháp chế